Xa cha là phung phá - gần cha lại hoang đàng
Bỏ cha đời nô lệ - với cha đời vương giả

(Bài suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Chay)



Sau khi đă kêu gọi con người cải thiện đời sống ở bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C tuần trước, trong bài Phúc Âm Thứ IV Mùa Chay Năm C tuần này, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm của Thánh Kư Luca về dụ ngôn người con phung phá, cũng được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, để kêu gọi con người nói chung, và thành phần tội nhân nói riêng, hăy tin tưởng vào t́nh yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa là Cha trên trời mà trở về với Ngài. Thật vậy, nếu người con phung phá không tin tưởng vào người cha từ bi nhân hậu của ḿnh, trái lại, biết chắc chắn rằng người cha sẽ giết chết ḿnh khi vừa thấy ḿnh, hoặc bỏ thương vương tội nhưng vẫn đối xử tàn tệ với ḿnh cho bơ ghét, hay để mặc cho người anh, thậm chí cả kẻ ăn người ở trong nhà tha hồ mà nhục mạ chửi rủa ḿnh, thử hỏi người con phung phá có dám ṃ về với cha hay chăng, hay thà chết cũng không bao giờ chịu trở về với cha.

Trong dụ ngôn này chúng ta thấy có nhiều màn xẩy ra cho người con phung phá, thứ tự như sau:

1. Người con xin cha chia phần gia tài của ḿnh cho.

2. Sau đó người con này đă đem gia tài của cha và được cha chia cho đi phung phí vào những đam mê trụy lạc của ḿnh.

3. Hậu quả của cuộc đời phung phá là người con phải trải qua một cảnh bần cùng khốn khổ hết sức nhục nhă và chán chường.

4. Thế nhưng, chính trong cơn hoạn nạn khốn khó ấy người con mới tỉnh ngộ và đă nghĩ về cha, để rồi quyết định trở về với cha.

5. Người con hoang đường chẳng những được cha thứ tha mà c̣n được cha vừa mở tiệc ăn mừng vừa phục hồi lại cho tất cả những ǵ quí giá người con đă làm mất đi trong quăng đời phung phá quá khứ của ḿnh.

Thật vậy, qua dụ ngôn này chúng ta mới thấy rằng chỉ có duy một ḿnh Thiên Chúa mới quả thực là người cha đích thật, mới xứng đáng mang danh làm cha và được gọi là “cha”. Bởi v́, Ngài vô cùng nhân hậu và xót thương, thông cảm với đứa con yếu đuối và lầm lạc, chẳng những không chấp nhất nó, trừng phạt lỗi lầm của nó, mà c̣n hết sức nhẫn nại, ngong ngóng trông đợi nó hồi tâm nghĩ lại mà trở về với ḿnh, để rồi khi vừa thấy nó tỏ ư muốn và dứt khoát trở về liên tự động nhào tới đón nhận nó, chứ không cần đợi nó phải mở miệng xin lỗi trước rồi mới tha sau, như thể muốn giải ḥa với nó trước (x Mt 5:23-24), thậm chí đă tự động bù đắp lại cho nó những ǵ nó đă đem phung phá, nhất là c̣n mở tiệc linh đ́nh mừng nó trở về, như thể nó đă lập được một thành tích lớn cho cha, một hành động làm cho người con cả tức điên lên, hận đến nỗi không chịu bước vào nhà, làm cho người cha phải khuyên giải mới nguôi ngoai.


Một dụ ngôn ba bí tích

Phân tích dụ ngôn này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đă ngấm ngầm tỏ cho các môn đệ biết Ngài có ư định lập 3 bí tích cho Giáo Hội, đó là bí tích rửa tội, bí tích giải tội và bí tích Thánh Thể.

Bí tích rửa tội trong dụ ngôn này được thể hiện nơi việc người con xin chia gia tài, thái độ của con người muốn lănh nhận phép rửa, muốn được phần gia tài sự sống thần linh, và người cha đă theo ư nó chia phần gia tài thuộc về nó cho nó, như Cha trên trời đă thông ban sự sống thần linh của Ngài, bằng Ơn Thánh Sủng cùng với các thần đức Tin Cậy Mến cho con người khi họ lănh nhận phép rửa.

Bí tích giải tội trong dụ ngôn này được thể hiện ở chỗ người con phung phá xét ḿnh, ăn năn dốc ḷng chừa, xưng tội và đền tội. Nó chẳng xét ḿnh là ǵ khi nghĩ lại thân phận của ḿnh trong lúc cùng cực nhất cuộc đời? Nó chẳng dốc ḷng chừa là ǵ khi cương quyết chỗi dậy trở về cùng cha, không phải chỉ v́ để tránh khỏi cảnh cùng khốn của ḿnh, một t́nh trạng dù sao cũng tạo điều kiện để nó nghĩ lại, cho bằng v́ thấy ḿnh sống bất xứng với thân phận làm con, tức làm nhục cho cha, làm ô danh cha, “không xứng đáng làm con cha”? Nó đă chẳng xưng tội khi xót xa thống hối mà thưa cùng cha “con đă xúc phạm đến trời và đến cha”? Nó đă chẳng đền tội là ǵ khi bị anh nó căm giận thù ghét, hậu quả không phải chỉ ở việc nó bỏ nhà ra đi phung phá gia tài của cha mà c̣n được cha nồng hậu tiếp nhận khi nó trở về nữa?

Bí tích Thánh Thể trong dụ ngôn này được thể hiện qua việc người cha mở tiệc linh đ́nh để ăn mừng người con “như chết mà sống lại”. Thật vậy, người cha không ăn mừng rồi mới trang sức lại cho người con phung phá, trái lại, như bí tích giải tội trả về cho con người đă chết bởi trọng tội chẳng những Thánh Sủng họ đă đánh mất mà c̣n tất cả mọi công nghiệp họ lập được nhờ các thần đức là khả năng thần linh của họ, người cha cũng đă tái trang sức cho nó những ǵ xứng với phẩm vị của nó là một người con trong nhà, để nó có đủ tư cách tiếp tục ngồi vào bàn của cha và với cha, bàn tiệc Thánh Thể Lời Nhập Thể, bàn tiệc Sự Sống Thần Linh, “sự sống viên măn hơn” (Jn 10:10) là chính mạng sống của vị mục tử nhân lành đi t́m từng con chiên lạc (x Jn 10:10; Lk 15:4).


Một mái nhà hai cuộc sống

Bài dụ ngôn trong Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ III này c̣n cho thấy một điểm rất đặc biệt nữa, đó là sự kiện người con ở gần cha nhất lại là người con hoang đàng, c̣n người con phung phá lại là người con gần cha hơn hết. Không phải hay sao, người con phung phá đă luôn ở gần cha, ở chỗ tin tưởng vào t́nh yêu nhân hậu của cha và đă trở về với cha, để từ t́nh trạng chết đi mà được sống lại, t́nh trạng mất hết mọi sự không c̣n ǵ mà lại được tất cả mọi sự. Trái lại, người con cả gần cha, không lúc nào rời xa cha, bao giờ cũng làm theo ư muốn của cha, lại không hề hiểu cha, cho rằng của cha khác với của ḿnh, chứ không phải “mọi sự của cha là của con”, bởi đó mới có thái độ tranh chấp, mới thành đứa con hoang đàng, cách biệt cha.

Đó là lư do chúng ta đừng khinh thường thành phần chúng ta cho là “tội nhân” đáng thương. Chẳng biết họ đáng thương hay chúng ta đáng thương, nếu chúng ta tự phụ cho ḿnh là đạo đức tốt lành, đọc kinh hằng ngày, đi lễ hằng tuần, xưng tội hằng tháng, mà lại hay phán xét người khác và khinh thường những người anh chị em “phung phá” của ḿnh. Họ quả thực đă có lúc là đứa con nói với cha “con không đi” làm vườn nho cho cha, nhưng sau đó lại đi, như một Mathêu (x Mt 9:9-13), Giakêu (x Lk 19:1-10), Mai Đệ Liên (x Lk 7:36-50, 8:2), thành phần tiêu biểu cho tội nhân có những hành động gian tham của cải trần gian như bọn thu thuế và/hay có những xu hướng đam mê xác thịt như đám gái điếm bán thân phụng sự các thứ ngẫu tượng hay thần tượng (x. Mt 21:31), hay như người đàn bà Samaritanô (x Jn 4:19,28-30), thành phần tiêu biểu cho dân ngoại ô uế trước con mắt dân Do Thái, c̣n chúng ta, như nhóm luật sĩ và Pharisiêu trong dân Do Thái xưa, lúc này có vẻ như đang sẵn sàng đi làm theo ư cha của ḿnh đấy, nhưng thực ra chẳng làm ǵ cả, thậm chí c̣n làm trái với ư cha của ḿnh nữa mà không biết là đàng khác (x Mt 21:28-32).

Ở đây chúng ta cũng nên lưu ư một điều hết sức quan trọng nữa là t́nh thương của Thiên Chúa được phát xuất bởi t́nh yêu vô cùng trọn lành, một t́nh thương là tất cả dung nhan của một Vị Thiên Chúa vô cùng toàn hảo trọn lành, do đó, không phải là một thứ thương hại, làm giảm giá trị của đối tượng được thương và cần thương, mà là tôn trọng ngôi vị của họ, phục hồi phẩm giá cho họ và thăng hóa đời sống của họ. Đó là ư tưởng đă được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn mạnh trong Thông Điệp “Giầu Ḷng Thương Xót” Dives in Mesericordia của Ngài, ở đoạn 5 và nhất là đoạn 6, ban hành ngày 13/11/1980, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng.

Có lẽ con người đầy quyền lực về khoa học và kỹ thuật ngày nay nhưng lại quá yếu đuối về tâm lư và bại hoại về luân lư cần đến ḷng thương xót Chúa hơn bao giờ hết. Dường như con người càng bại hoại, càng làm méo mó h́nh ảnh thần linh vô cùng cao cả của ḿnh, qua những trào lưu công khai sống đồng tính luyến ái và đồng tính lấy nhau, qua những thứ kỹ thuật tạo sinh sao bản con người, qua những hành động phá thai và khủng bố coi sự sống vô giá như đồ bỏ của nền văn hóa sự chết từ cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 này, th́ dung nhan vô cùng yêu thương nhân hậu của “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) càng tỏ hiện.

Đó là lư do, ngay từ đầu thế kỷ 20, vào chính thời điểm của Thế Chiến Thứ I, Mẹ Maria đă bảo 3 Thiếu Nhi Fatima, sau khi đă tiết lộ cho các em Bí Mật Fatima, với phần thứ nhất là thị kiến hỏa ngục, là sau mỗi chục Kinh Kính Mừng, hăy đọc thêm lời “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến ḷng thương xót Chúa hơn”. Ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, Mẹ Maria đă cho 3 Thiếu Nhi Fatima được thị kiến thấy hỏa ngục và dậy các em Lời Nguyện Fatima này là để làm ǵ, nếu không phải để nhắc nhở và cảnh báo con người nói chung và thành phần môn đệ Chúa Kitô nói riêng về những ǵ Chúa Giêsu đă kết thúc dụ ngôn phán xét chung: “Hỡi đồ bị kết án các ngươi, hăy xéo đi cho khỏi nhan của Ta mà vào lửa đời đời đă giành sẵn cho ma qủi cùng các thần của hắn” (Mt 25:41).

Từ đầu thế kỷ 19, mở màn cho Thời Điểm Maria của ḿnh, Mẹ Maria đă “tiến lên như Rạng Đông” ở Biến Cố Thánh Mẫu Paris năm 1830, nơi Mẹ bảo làm một mẫu ảnh Mẹ Ban Ơn đứng trên quả cầu và đạp đầu rắn quỉ; “đẹp như mặt trăng” ở Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 1858, nơi Mẹ xưng ḿnh “Vô Nhiễm Thai” và là nơi duy nhất Mẹ mỉm cười trong tất cả các nơi Mẹ hiện ra; “rực rỡ như mặt trời” ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, nơi Mẹ xưng ḿnh là “Đức Mẹ Mân Côi” và là nơi xẩy ra phép lạ cả thể mặt trời nhẩy múa trên không trung; và “oai hùng như đạo binh dàn trận”, qua phong trào Tượng Mẹ Thánh Du Quốc Tế đi khắp nơi trên thế giới, nhất là qua Biến Cố Đông Âu sụp đổ cuối năm 1989, cũng như qua biến cố Liên Sô Nga Cộng giải thể vào Giáng Sinh năm 1991.

Mẹ đến để đem con người về với Chúa là Cha trên trời. Bởi v́, bỏ Cha mà đi, cho rằng Thiên Chúa đă chết, để sống một sống vô thần duy vật, con người đă và đang trở thành những tên làm nô lệ cho nhục dục, thưởng thức cả những thứ đớn hèn của loài heo mà cũng không thỏa. Chỉ có trở về với Cha, sống xứng với vai tṛ và thân phận làm con Thiên Chúa của ḿnh, xứng với bản chất là h́nh ảnh thần linh của ḿnh, con người mới được hoàn toàn tự do, với tư cách là chủ nhân ông của ḿnh, như trường hợp sau khi trở về của người con phung phá.

Như thế, trong Thời Điểm Maria, thời điểm được Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) gọi là “vào những thời gian sau này”, tức sau thời của ngài là đầu thế kỷ 18, và đă suy diễn trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (khoản 49 và 50.4) về vấn đề hai lần đến của Chúa Kitô, có thể gọi là Mùa Vọng Cánh Chung, Mẹ Maria đă đến để dẫn con người phung phá, con người văn minh hầu như tuyệt đỉnh về vật chất và nhân bản, nhưng đang phá sản văn hóa và khủng hoảng đức tin, về nhà Cha, về với dự án nguyên thủy của Thiên Chúa giành cho họ, đó là dự án con người “làm chủ trái đất” (Gen 1:28), với tư cách là con Thiên Chúa.


Dung Nhan Đích Thực của Thiên Chúa là T́nh Yêu


Trong Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu gửi cho các Hồn Nhỏ, qua nữ thư kư Magarita người Bỉ của ḿnh, Chúa Giêsu đă nói những lời rất phản ảnh nội dung của bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C tuần này, đúng hơn phản ảnh t́nh yêu nhân hậu của người cha đối với cả người con phung phá trở về lẫn người con hoang đàng không muốn vào nhà. Đọc dụ ngôn của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này và đọc những lời Chúa Giêsu lập lại t́nh yêu nhân hậu của Người với con người thời đại ngày nay, chúng ta thấy rằng con người không thể nào hư đi được, trừ phi họ không chấp nhận t́nh thương của Ngài, tức xúc phạm đến chính bản tính trọn lành của Ngài, xúc phạm đến Thánh Linh, một tội không thể tha thứ được cả đời này lẫn đời sau (x Mt 12:32).

“Nếu con cảm thấy ḿnh yếu đuối và bất lực, chính là v́ Cha đă mặc cho con đức khiêm hạ của một vị Thiên Chúa bị đóng đanh” (18/12/1967)

“Hăy dâng cho Cha nhân tính của con. Cha lại đă chẳng mặc lấy nó khi v́ yêu thương mà làm người hay sao? Cha sẽ mặc cho con thần tính của Cha để con yêu mến Cha bằng t́nh yêu của các thần trời” (10/4/1967)

“Cha không phải là một Thiên Chúa kềm kẹp con, mà là một Thiên Chúa làm cho con hoàn toàn phát triển theo ánh sáng của ḷng con ưng thuận trước những ơn soi động của Cha. Ngay cả khi Cha muốn con nên trọn lành, trong khi đó t́nh yêu của con vẫn cứ bất toàn, th́ hỡi con nhỏ của Cha, Cha lại đă chẳng mặc lấy nhân tính của con làm như của Cha hay sao?... Ngày gặp đêm rồi mất hút trong đêm thế nào. Cũng vậy, từ ánh sáng mà ra, linh hồn đi sâu vào tăm tối. Thế nhưng, ân sủng phát sinh một ngày mới c̣n tươi sáng hơn cả ngày trước đó, v́ nó giải cứu linh hồn khỏi bóng đêm phong tỏa linh hồn” (19/8/1967).

Qua dụ ngôn người con phung phá và người cha nhân lành này, cũng như qua những lời mạc khải tư hiện đại rất hợp với mạc khải Phúc Âm vừa được trích dẫn, tôi cảm nghiệm được những điều sau đây:

1)    Tột đỉnh của t́nh yêu chính là t́nh thương, v́ yêu mà không thương sẽ đi đến chỗ vị kỷ và chia rẽ (kỳ thị hay ly dị) một khi đối tượng được yêu không c̣n hợp với ḿnh nữa, trái lại t́nh thương sẽ biến chủ thể yêu trở thành đáng thương hơn đối tượng được thương, tới nỗi, làm cho chủ thể yêu hoàn toàn hiệp thông với đối tượng yêu.

2)    Nếu t́nh thương là chân dung đích thực của t́nh yêu như thế th́ t́nh thương không phải là những ǵ hạ giá đối tượng được thương mà c̣n thăng hóa đối tượng thương đến độ thậm chí đối tượng được thương c̣n trở thành cao quí hơn cả chủ thể thương, một chủ thể hiến mạng sống ḿnh cho đối tượng được thương.

3)    Trong Cựu Ước, vị Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra cho dân Do Thái biết rằng Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, cũng được Ngài chứng thực chân lư cứu độ bằng t́nh thương bao la vô đối của Ngài, một t́nh thương thể hiện qua việc Ngài trung thành cho đến cùng những ǵ Ngài đă tự hứa với tổ phụ của dân tộc này, dù dân tộc này liên lỉ bất trung với Ngài. Như thế, t́nh thương không phải là dung nhan đích thực của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất hay sao.

4)    Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đă hoàn toàn tỏ hiện dung nhan đích thực của ḿnh ra trên thế gian này qua Lời Nhập Thể Tử Giá, và chỉ nh́n lên Dung Nhan Thần Linh không c̣n h́nh tượng con người này loài người tội nhân mới được cứu độ (x Jn 3:14), mới được hiệp thông với Đấng đă yêu thương họ đến ban Con Một ḿnh, Đấng yêu thương con người khi họ c̣n là thành phần tội nhân đáng phạt, thậm chí Ngài đă yêu thương con người tội nhân đáng phạt này đến phó nạp Con ḿnh (x Rm 5:8;8:32). 

5)    Đó là lư do tội phạm đến Thiên Chúa nhất đó là tội không tin tưởng vào ḷng thương xót của Ngài, một tội không thể thứ tha (x Mt 12:32) và là một tội xúc phạm đến Thiên Chúa nhất, chẳng khác ǵ như lưỡi đ̣ng đâm thâu qua cạnh sườn vị Thiên Chúa làm người đă tử giá mà vẫn c̣n những con người tự do không chấp nhận t́nh thương của Thiên Chúa, tức không nh́n nhận chân dung của Ngài, hay không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô cũng vậy.

6)     Nếu Thiên Chúa chân thật duy nhất là Vị Thiên Chúa cứu độ (x Lk 1:47), Vị Thiên Chúa của ḷng xót thương (x Lk 1:54-55), Vị Thiên Chúa đă thực sự và hoàn toàn tỏ chân dung của Ngài ra nơi Lời Nhập Thể Tử Giá, và nếu "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô" (Jn 17:3), th́ sự chết đời đời là ở chỗ không tin vào một Vị Thần Linh có thể yêu thương con người, đến chẳng những hóa thân làm người như họ mà c̣n hiến mạng sống ḿnh cho họ.

7)    Linh đạo chính yếu của Kitô hữu là ở chỗ yêu thương hơn là lễ vật và việc lành: "Khi các con đến bàn thờ dâng của lễ mà chợt nhớ rằng anh em có điều ǵ với các con th́ các con hăy bỏ của lễ đó mà về làm ḥa cùng anh em các con trước đă rồi hăy đến dâng lễ vật" (Mt 5:23-24); "các người hăy đi học cho hiểu ư nghĩa của điều này là Ta mong muốn ḷng xót thương chứ không phải hy tế" (Mt 9:13). Đứa con cả luôn ở gần cha, luôn làm việc cho cha và giữ tất cả những ǵ cha muốn, nhưng chỉ v́ không có ḷng thương xót như cha, nên vẫn không hiệp thông với cha, vẫn là một đứa con hoang đàng, c̣n đáng thương hơn cả đứa em phung phá nhưng lại biết tin vào ḷng thương xót của cha và trở về với cha vậy!


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL